Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

Kinh Dương Vương

Đăng bởi   vào   Bình luận

KINH DƯƠNG VƯƠNG
涇陽王
Thông tin cơ bản:
Tên húy
LỘC TỤC
Chữ Hán
祿續
Hiệu
Nam Bang Thủy Tổ
Chữ Hán

Sinh

Mất
18 Tháng một (âm lịch)
Mộ phần
Thôn Á Lữ, Xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc Ninh
Vợ
Long Nữ


Con trưởng
Cháu nội
Hùng Vương



Sử sách chép gì về Kinh Dương Vương?

Sử sách chép về Kinh Dương Vương không nhiều. Ông chủ yếu xuất hiện trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, hiện lên với hình tượng là thủy tổ của Dân tộc Việt.
Năm Nhâm Tuất (Đời vua Đế Nghi bên Tàu Khựa, khoảng năm 2879 Trước Công Nguyên) Ông thành lập nước Xích Quỷ, xưng hiệu là Kinh Dương Vương, đóng đô ở Ngũ Lĩnh.

Lãnh thổ nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đình (Hồ Nam - Trung Quốc bây giờ), phía nam giáp nước Hồ Tôn, phía đông giáp biển, phía tây giáp đất Ba – Thục. Nhưng vậy, lãnh thổ nước Xích Quỷ ngày nay trải dài từ nam sông Trường Giang cho tới tận miền trung Việt Nam, từ vùng núi Tứ Xuyên – Trung Quốc cho tới bờ biển phía đông.

Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra một người con đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi, lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Theo như truyền thuyết còn lưu truyền, thì Kinh Dương Vương là ông nội của Hùng Vương thứ nhất.

Về tên hiệu

Có giả thuyết cho rằng “Kinh Dương Vương” là danh hiệu đời sau truy tặng cho một tù trưởng bộ lạc đã góp công vào việc thống nhất tộc người Lạc Việt, có thể là tù trưởng bộ lạc Văn Lang trước Hùng Vương. Sự nghiệp của ông được tiếp nối bởi Lạc Long Quân và Hùng Vương đời thứ nhất. Niên đại của Kinh Dương vương là trước thế kỷ 7 TCN bởi theo các bằng chứng khảo cổ học thì nhà nước đầu tiên Văn Lang được thành lập vào thế kỷ VII TCN.

Về đền thờ và lăng mộ

Khu Lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương nằm ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đây được coi là nơi duy nhất ở Việt Nam còn nguyên dấu tích Kinh Dương Vương. Lăng mộ này không rõ được xây dựng từ bao giờ, hiện chỉ còn bia đá đề bốn chữ Hán: Kinh Dương Vương Lăng, thể hiện được trùng tu thời Minh Mạng nhà Nguyễn năm 1840. Trên lăng có hai chữ Hán: Bất Vong (không bao giờ mất).

Cách lăng mộ chừng 300 m là đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đền thờ hiện lưu giữ nhiều đạo sắc phong có niên đại từ năm 1810 - 1924 và một bức đại tự có chữ Đại Nam tổ miếu.

Lời của tác giả.

Nhớ rằng:
Đất nước của chúng ta trải qua hơn 1000 năm bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, mối nhục này chúng ta đâu thể quên.
Tự hào rằng:
Đất nước của chúng ta với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm oai hùng của các bậc tiền nhân đi trước. Lẫy lừng nhất trong lịch sử là 3 lần đánh thắng quân Mông – Nguyên khiến cho cả Thế giới khiếp sợ.
Ý thức rằng:
Lịch sử của Dân tộc là những nỗi đau bất hạnh kéo dài triền miên. Sự thờ ơ với lịch sử của mỗi người Việt Nam chính là con dao giết chết Dân tộc, với làn sóng xâm lăng của ngoại bang là không bao giờ kết thúc.
Vậy nên:
Là người Việt Nam, không nhất thiết phải giỏi lịch sử. Nhưng phải biết và phải hiểu lịch sử Nước nhà. Không làm rạng danh được tổ tiên thì phải để cho con cháu được tự hào.