AN
DƯƠNG VƯƠNG
(安陽王)
Tên húy: Thục Phán (蜀泮)
Sinh: (Chưa rõ)
Mất: 208 TCN (Theo Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư)
179 TCN (Theo Sử ký
Tư Mã Thiên)
Quốc tịch: Nam Cương
Mộ và đền thờ: Di tích đền thờ Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện
Đông Anh, TP Hà Nội.
Đền Cuông thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
THÂN THẾ
Ông Nội: Thục Vương
Cha: An Trị Vương - Thục Chế
Con gái: Mỵ Châu
DẸP LOẠN 9 CHÚA
Thục Phán là con trai của An Trị Vương – Thục Chế, lên ngôi
khi 10 tuổi, nhưng quyền hành thực tế lại nằm trong tay Thục Mô – Cháu nội Thục
Chế. Sự chuyên quyền của Thục Mô khiến cho 9 Mường của Nam Cương nổi dậy tranh
dành ngôi vua. Thục Phán bằng lòng can đảm và mưu trí đã thu phục và thống nhất
lại được 10 Mường của Nam Cương, lấy lại quyền hành từ tay của Thục Mô. Ngày
này, dân tộc Tày (Việt Nam) và dân tộc Choang (Tàu) còn lưu truyền câu chuyện
"Cẩu chủa cheng vùa" nói về sự kiện 9 chúa tranh vua ở nước Nam Cương
thời Thục Phán.
CHỐNG QUÂN TẦN
Sau khi Doanh Chính – Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung
Nguyên, đã phát binh Nam tiến xâm lược Bách Việt (218 TCN) Trước sự thất bại của
nhiều Tiểu Quốc trong Bách Việt, và nhận thấy nguy cơ diệt vong trước đại quân
Tần hung hãn đang gần kề. Thục Phán đã tiến hành liên kết với nước Văn Lang để
chống Tần. Cuộc chiến kéo dài trong 6 năm ròng rã (214TCN – 208TCN) với sự kiện
tướng Tần là Đồ Thư bị Thục Phán chém đầu đã chấm dứt cuộc chiến.
Theo các cứ liệu lịch sử và truyền thuyết, vai trò của Thục
Phán trong cuộc kháng chiến chống Tần là rất to lớn.
THÀNH LẬP NƯỚC ÂU LẠC
Theo các cứ liệu lịch sử hiện nay có hai luồng quan điểm về
việc Thục Phán thành lập nước Âu Lạc.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Sau khi kháng chiến chống Tần
thành công, Hùng Vương truyền ngôi cho Thục Phán lên làm vua, lấy hiệu là An
Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Sau khi kháng chiến chống Tần thắng
lợi, trên đà chiến thắng, Thục Phán đã thu phục luôn cả Văn Lang rồi hợp nhất
vào với nước Nam Cương đổi tên thành Âu Lạc, lấy hiệu là An Dương Vương, đóng
đô ở Cổ Loa.
Theo quan điểm cá nhân, sự kiện này chỉ có thể diễn ra theo
quan điểm thứ 2. Xưa Thục Vương từng sang cầu hôn công chúa nước Văn Lang
nhưng không thành, dẫn quân đi chinh phạt nhưng thất bại, nên đã di chiếu cho
con cháu ngày sau phải diệt nước Văn Lang. Sau khi Thục Phán dẹp yên nội tình
Nam Cương, nước này ngày càng trở nên lớn mạnh và có ý định thôn tính những nước
lân bang, nhiều lần đưa quân sang gia tranh với Văn Lang nhưng thất bại. Lợi dụng
thành quả chiến thắng chống Tần và danh tiếng của mình trong cuộc chiến, Thục
Phán đã đánh úp Hùng Vương và dành chiến thắng. Nhưng chắc rằng, Hùng Vương và
Thục Phán đã có một giao kèo nào đó dẫn tới việc Thục Phán đổi tên nước Nam
Cương thành nước Âu Lạc, Thục Phán sẽ để lại đền thờ lăng mộ các vua Hùng trước
kia. Có thể là để các Bộ nước Văn Lang sẽ không nổi dậy chống lại Thục Phán.
Sau khi lên ngôi, Thục Phán xưng là An Dương Vương, đặt ra
triều chính, đổi Quốc hiệu là Âu Lạc.
Hẳn rằng khi vừa lên ngôi, Thục Phán còn đang đóng đô ở
thành Bàn Phủ hoặc là chính tại đất Phong Châu. Nhưng vì địa thế những nới này
khiến cho việc không thể kiểm soát được các vùng lãnh thổ trong nước, nên buộc
Thục Phán phải chọn một vị trí mới để đặt làm kinh đô xây thành đắp lũy. Và chọn
được vùng đất Cổ Loa ngày này để dựng lên môt tòa thành bằng đất nguy nga.
XÂY THÀNH CỔ
LOA
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác
châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ
đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu
đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù
sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một
con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu,
con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao
thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng
bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng
cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này
chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Qua con sông Hoàng,
thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập
vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến
biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập
vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng
bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá
và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn
phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực
từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng
bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao
tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy;
trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân
cư cũng đông đúc hơn.
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch
nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,58 km, vòng trong 1,6
km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất
đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc
thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao
trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m.
Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là
một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ
nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát
hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá.
Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn có đường kính 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một
mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra, thành một vùng khép kín, thuận lợi
cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền
Khê - Hoàng Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông
Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã
chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Nhân
dân cũng được điều tới khai phá rừng đa (Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu
da (Du Lâm)... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế
tạo côn, kiếm, giáo, mác và nỏ liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều
bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ
liên châu ở đây.
Lời của tác giả.
Nhớ rằng:
Đất nước của chúng
ta trải qua hơn 1000 năm bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, mối nhục này
chúng ta đâu thể quên.
Tự hào rằng:
Đất nước của chúng
ta với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm oai hùng của các bậc
tiền nhân đi trước. Lẫy lừng nhất trong lịch sử là 3 lần đánh thắng
quân Mông – Nguyên khiến cho cả Thế giới khiếp sợ.
Ý thức rằng:
Lịch sử của Dân
tộc là những nỗi đau bất hạnh kéo dài triền miên. Sự thờ ơ với
lịch sử của mỗi người Việt Nam chính là con dao giết chết Dân tộc.
Và làn sóng xâm lăng của ngoại bang là không bao giờ kết thúc.
Vậy nên:
Là người Việt Nam,
không nhất thiết phải giỏi lịch sử. Nhưng phải biết và phải hiểu
lịch sử Nước nhà. Không làm rạng danh được tổ tiên thì phải để cho
con cháu được tự hào.