Lý Ông Trọng
|
李翁仲
|
||
Tên húy
|
Lý Thân
|
||
Quê quán
|
Làng Chèm, Thụy
Phương – Bắc Từ Liêm – Hà Nội
|
||
Đền thờ
|
Đình Chèm (Cùng
quê)
|
||
Lý Ông Trọng là một nhân vật có thật trong lịch sử, được coi là “Tứ
Đại Trụ Thần”, xuất hiện trong nhiều dị bản khác nhau của truyền thuyết dân
gian.
Theo chính sử, Lĩnh Nam Chích Quái chép, Lý Ông Trọng là bậc dũng
sĩ, vóc dáng cao to, khí chất phi phàm. Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông “cao
2 trượng 3 thước” (gần 2 mét), khí chất đoan dũng, khác với người thường”
SỰ NGHIỆP
LÀM QUAN NƯỚC VĂN LANG
Thời trẻ, Ông Trọng đến hương ấp làm lực dịch. Khi bị trưởng quan
đánh đòn, ông than rằng: “Người ta ở đời có tráng chí, hãy nên như chim loan,
chim phượng bay cao chín tầng trời, bay xa ngàn vạn dặm, chứ lẽ nào quanh quẩn
mãi ở đây, chịu để cho người ta hành hạ?”. Từ đó Ông Trọng quyết chí tu thân,
dùi mài kinh sử, sau sang nước Tần, được vua Tần trọng dụng, cho làm quan tới
chức Tư lệ hiệu úy. Sự việc này được ghi chép lại trong cả Đại Việt sử ký và
Việt Điện U Linh.
Theo truyền thuyết dân gian, Ông Trọng là người cương trực, trung
hậu, thương dân, từng đánh nhau với tên lính huyện để bảo vệ dân phu, sau lại
được Hùng Vương trọng dụng. Ông có công giúp vua Hùng dẹp yên bờ cõi, ngăn chặn
quân địch từ phía Tây và phía Nam tiến vào Văn Lang.
THỜI KỲ ÂU LẠC
Đến thời An Dương Vương, ông trở thành tướng giỏi và được vua cử
sang sứ nước Tần. Tần Thủy Hoàng thấy tướng mạo phi phàm của vị sứ giả phương
Nam, biết không phải người phàm, bèn ngỏ ý mời ông giúp trừ giặc Hung Nô, phong
ông làm Vạn Tín Hầu.
Năm 221 TCN (Năm thứ 26 triều Tần Thủy Hoàng), nước Tần thôn tính
cả 6 nước vùng Trung Nguyên và xưng Đế. Thời đó mặc dù Tần Thuỷ Hoàng uy danh
ngàn vạn dặm, nhưng biên giới phía Bắc luôn bị quân Hung Nô quấy nhiễu. Quân
Tần có Vạn Lý Trường Thành nhưng vẫn phải nhiều phen khốn đốn, chống đỡ liên
miên.
Tần Thủy Hoàng bèn phái Ông Trọng đến trấn giữ đất Lâm Thao, tức
vùng đất tỉnh Cam Túc ngày nay. Uy danh của Ông Trọng khiến quân Hung Nô khiếp
đảm, chỉ đứng nhìn từ xa mà cũng đủ hồn xiêu phách lạc. Sách Từ Nguyên Trung
Quốc ghi: “Nguyễn Ông Trọng đời Tần, người Nam Hải, thân dài một trượng ba
thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường. Vua Thủy Hoàng sai cầm quân
giữ đất Lâm Thao, thanh thế chấn động Hung Nô. Ông Trọng chết. Vua sai đúc
tượng đồng để ở của Tư Mã, coi giữ cung Hàm Dương”.
Đại Nam quốc sử diễn ca viết về ông như sau:
“Hiếu liêm nhẹ bước thanh
vân
Làm quan hiệu úy đem quân
ngữ Hồ
Uy danh đã khiếp Hung Nô
Người về Nam quốc hình đồ
Bắc phương.“
Bài thơ trong Lĩnh Nam chích quái, Truyện Lý Ông Trọng cũng có khen
ngợi rằng:
“Võ giỏi văn tài đấng
trượng phu
Hàm Dương đồng tượng khiếp
quần Hồ
Vĩnh Khang ứng mộng bàn
kinh truyện
Hương lửa trời Nam vững đế
đồ.”
PHÒ MÃ ĐẠI TẦN
Từ khi có Lý Ông Trọng, quân Hung Nô không còn dám bén mảng tới
biên giới nhà Tần. Vua Tần cũng vì thế mà rất mực tin yêu, muốn giữ chân ông
nên bèn gả công chúa Bạch Tĩnh Cung, tức Tây Cung công chúa. Là một sứ giả
người Việt, vừa được phong quan chức, lại trở thành phò mã như vậy, thật hiếm
lắm thay.
Thế nhưng, danh tiếng và quyền thế nơi đất khách vẫn không thể giữ
chân ông. Ông gửi lòng mình theo những áng mây trôi về phương Nam, ngày đêm
mong ngóng sớm được đoàn tụ cùng gia viên. Khi biết Ông Trọng được vua Tần phê
chuẩn cho trở lại cố hương, quân Hung Nô lại tiến quân sang quấy nhiễu. Không
còn cách nào khác, Tần Thủy Hoàng phải sai sứ sang Âu Lạc thỉnh mời. Nhưng Ông
Trọng tìm cách thoái thác, không muốn tiếp tục phục vụ nước Tần.
Truyền thuyết dân gian kể rằng ông phải giả chết, khiến vua Tần bất
đắc dĩ đúc một pho tượng đồng khổng lồ hình Lý Ông Trọng. Pho tượng được đặt ở
cửa Tư Mã Hàm cung. Bên trong pho tượng chứa được vài chục người, và có chỗ
điều khiển để cử động tay chân. Khi quân Hung Nô định kéo sang cướp phá, từ xa
thấy bức tượng đồng cứ ngỡ là Ông Trọng, phải vội vàng tháo chạy, không dám bén
mảng tới nước Tần lần nữa.
LƯU DANH THIÊN CỔ NGÀN NĂM
SAU
Nhiều trăm năm về sau, thanh danh của Lý Ông Trọng vẫn khiến nhiều
tướng lĩnh Trung Hoa phải cúi đầu tôn kính. Đến đời Đức Tông nhà Đường, niên
hiệu Trinh Nguyên năm đầu, Triệu Xương qua làm Đô Hộ nước An Nam ta thường qua
chơi làng Vương (tên gọi Lý Ông Trọng trong Việt Điện U Linh).
Đêm mộng thấy cùng Vương nói chuyện trị dân, và giảng luận sách
Xuân Thu tả truyện, nhân đó Triệu Xương mới hỏi thăm nhà cũ của Vương hồi xưa,
thì chỉ thấy mù khói ngang trời, sông nước mênh mông, rêu phong đường đá. Ông
mới lập lại đền thờ, xưởng cao lầu lớn, rồi chuẩn bị lễ vật đem đến tế Vương.
Đến lúc Cao Biền (tướng nhà Đường) đánh phá nước Nam Chiếu (là
vương quốc của người Bạch và người Di ở Vân Nam Trung Quốc), Vương thường hiển
linh trợ thuận. Cao Biền lấy làm kinh dị, sai thợ trùng tu đền thờ ông tráng lệ
hơn xưa, và chạm khắc tượng gỗ son thếp vàng giống như thực, đem lễ vật đến tế,
từ đó, hương hỏa không khi nào hết.
Đến thời Bắc Thuộc (từ năm 603 đến năm 938) đền thờ Lý Ông Trọng
tiếp tục được cho xây dựng ở Thị Điềm, Thụy Phương (phường Thụy Phương, quận
Bắc Từ Liêm, Hà Nội ngày nay). Để tưởng nhớ Lý Ông Trọng, hằng năm ba làng:
Thụy Phương, Hoàng Mạc và Liên Mạc tổ chức lễ hội đền Chèm từ 14 đến 16 tháng 5
âm lịch.
Ngày nay ở làng Chèm, huyện Từ Liêm, vẫn còn ngôi đền cổ thờ Lý Ông
Trọng do vua Tần cho người xây dựng. Trải qua hàng nghìn năm phong ba cùng tuế
nguyệt, ngôi đền vẫn còn giữ được pho tượng Lý Ông Trọng cao 8 mét, cùng với
các câu đối và văn bia ghi lại thần tích về ông. Trong đó có câu: “Hương, Bổng,
Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta”. “Hương” ở đây là Lý Ông Trọng,
người làng Chèm, xã Thụy Hương. Đức Thánh làng Chèm vì thế mà được xếp ngang
hàng với Phù Đổng Thiên Vương, là một trong Tứ Đại Trụ Thần của nước ta thời
xưa. Phạm Sư Mạnh nhà Trần có lời thơ về ông:
“Văn Lang thành cổ sơn
trùng điệp
Ông Trọng từ thâm vân đạm
nùng.”
Dịch
“Văn Lang thành cổ non
trùng điệp
Ông Trọng đền thiêng mây
nhạt nồng.”
Lời của tác giả.
Nhớ rằng:
Đất nước của chúng ta trải qua hơn 1000
năm bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, mối nhục này chúng ta đâu thể quên.
Tự hào rằng:
Đất nước của chúng ta với truyền thống
đấu tranh chống ngoại xâm oai hùng của các bậc tiền nhân đi trước.
Lẫy lừng nhất trong lịch sử là 3 lần đánh thắng quân Mông – Nguyên
khiến cho cả Thế giới khiếp sợ.
Ý thức rằng:
Lịch sử của Dân tộc là những nỗi đau
bất hạnh kéo dài triền miên. Sự thờ ơ với lịch sử của mỗi người
Việt Nam chính là con dao giết chết Dân tộc. Và làn sóng xâm lăng của
ngoại bang là không bao giờ kết thúc.
Vậy nên:
Là người Việt Nam, không nhất thiết phải
giỏi lịch sử. Nhưng phải biết và phải hiểu lịch sử Nước nhà. Không
làm rạng danh được tổ tiên thì phải để cho con cháu được tự hào.