Thảo luận: Hoàng đế Gia Long có 'cõng rắn căn gà nhà' hay không?
Trong cuộc nội chiến tại miền Nam những
năm 1954-1975, lịch sử đã được các nhà nghiên cứu miền Bắc vận dụng như một lợi
khí về mặt tâm lý để hỗ trợ cho các nỗ lực quân sự, phong trào Tây Sơn được mệnh
danh là “phong trào nông dân” và được viện dẫn như một mô hình lý tưởng, trùng
hợp với các phong trào Cộng sản quốc tế trong việc lật đổ chính quyền thực dân
cũng như các chính quyền “phản động” khác. Và cũng chính điều này vô hình chung
đẩy thế lực đối kháng với phong trào Tây Sơn lúc bấy giờ, tiêu biểu là chúa
Nguyễn Ánh – vua Gia Long, vào thành phần phản động nhất.
Người ta đã viện dẫn nhiều sự kiện lịch
sử để chứng minh cho sự “thối nát” của triều Nguyễn, nổi bật nhất là việc hoàng
đế Gia Long “cõng rắn cắn gà nhà” và “trả thù tàn bạo” nhà Tây Sơn… Có người
còn đi xa hơn, cho rằng việc Hoàng đế Gia Long được sự giúp sức của một nhóm sĩ
quan Pháp hoạt động độc lập vào cuối thế kỷ XVIII là nguyên nhân dẫn đến việc
thực dân Pháp chiếm lấy Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XIX, mà không hề lý gì tới
cuộc tranh giành thuộc địa đang hồi gay cấn của hai đế quốc Anh và Pháp tại vùng
châu Á và Viễn Đông trong một thời gian dài.
1.
Về chuyện “cõng rắn” của chúa Nguyễn Ánh
Những năm đầu thập niên 1780, cuộc nội
chiến giữa chúa Nguyễn mà người cuối cùng còn sống sót là Nguyễn Ánh (lúc đó mới
9 tuổi) và nhà Tây Sơn đã đến hồi khốc liệt. Đến năm 1783 thì thế trận nghiêng
hẳn về phía Tây Sơn, chúa Nguyễn phải chạy ra những đảo xa để tránh cuộc truy
sát của đối phương. Năm 1784, thế cùng lực tận, theo lời đề nghị của một tướng
Xiêm (Thái Lan) trong cuộc gặp gỡ tại Long Xuyên, chúa Nguyễn Ánh quyết định tạm
thời sang Xiêm tá túc, chờ cơ hội lật ngược thế cờ. Tháng 3 Âm lịch năm này,
vua Xiêm “bèn ước hẹn giúp quân để mưu đồ khôi phục. Vua thứ hai nước Xiêm nhân
đó nhắc đến việc năm trước giảng hòa với Nguyễn Hữu Thụy (Nguyễn Văn Thoại) đã
có thề ước với nhau là gặp hoạn nạn thì cứu nhau, thì ngày nay xin phải ra sức.
Bèn đưa những vật Nguyễn Hữu Thụy tặng là cờ đào và gươm ra để làm tin, rồi định
ngày cử binh”. (Đại Nam Thực Lục – Tập Một – NXB Giáo dục – Hà Nội 2002, trang
221).
Tháng 6 Âm lịch năm ấy, chúa Nguyễn
Ánh mang quân về Gia Định, vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem
hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền theo giúp. Lực lượng quân Xiêm được đặt
dưới sự chỉ huy chung của tướng Việt là Bình Tây Đại Đô đốc Châu Văn Tiếp, bắt
đầu tiến đánh đạo Kiên Giang, rồi thẳng đến Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc… Tháng 10
Âm lịch năm 1784, Châu Văn Tiếp tử trận trong trận đánh tại sông Mân Thít.
Tháng sau, “vua thấy quân Xiêm tàn bạo, đến đâu là cướp bóc đấy, nhân dân ta
oán rất nhiều, bảo các tướng rằng: ‘Muốn được nước phải được lòng dân. Nay Chu
(Châu) Văn Tiếp đã mất, quân Xiêm không ai chế ngự được. Nếu được Gia Định mà mất
lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Thà hãy lui quân để đừng làm khổ nhân dân’”
(Đại Nam Thực Lục – sđd, trang 222).
Cuối năm (âm lịch) đó, quân Xiêm bị phục
binh của nhà Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ đánh một trận tan tác.
Tháng 4 Âm lịch năm sau (1785), được tin về sự lộng hành của quân Xiêm tại Gia
Định, vua Xiêm nổi giận định chém hai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương là những
người chỉ huy trực tiếp đạo quân này, may nhờ chúa Nguyễn Ánh can gián nên họ
thoát chết. Qua những sự kiện lịch sử trên, ta có thể thấy rõ những lập luận
cho rằng quân Xiêm xâm lược nước ta và Nguyễn Ánh “cõng rắn cắn gà nhà” là
không đứng vững, vì các lý do sau:
Hành động xâm lược chỉ có thực khi
quân đội nước này sang tấn công một nước khác, đánh bại quân nước đó và chiếm
đóng lâu dài. Trong trường hợp kể trên, quân Xiêm được triều đình nước này cử
đi tăng cường cho lực lượng có sẵn của chúa Nguyễn Ánh và đặt dưới sự chỉ huy
trực tiếp của tướng Việt là Châu Văn Tiếp thì chỉ có thể nói đó là đạo quân
đánh thuê hơn là đạo quân xâm lược.
Không thể coi chúa Nguyễn Ánh là “cõng
rắn” khi và chỉ khi ông sử dụng quân Xiêm như một công cụ để tăng cường sức mạnh
của quân đội do ông và các tướng Việt chỉ huy. Việc quân Xiêm lợi dụng cơ hội để
tàn hại dân lành là một tình huống bất ngờ trong chiến tranh, nằm ngoài dự kiến
của cả phía Việt lẫn phía Xiêm. Tất nhiên, chúa Nguyễn Ánh và các tướng của ông
phải chịu trách nhiệm về biến động này. Và như những phát biểu của ông với các
tướng, điều này chỉ có tính nhất thời và vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của
phía Việt. Nếu quân Xiêm được đưa sang Đại Việt nhằm mục đích xâm lược, vua
Xiêm đã không nổi trận lôi đình đòi mang hai người cháu ra chém đầu về những việc
làm tệ hại mà binh lính của họ đã gây ra.
Qua việc vua Xiêm công bố về thỏa thuận
của cả hai bên “đã có thề ước với nhau là gặp hoạn nạn thì cứu nhau”, có thể thấy
rằng vào những thế kỷ XVIII – XIX, các nước Đông Nam Á đã có một thỏa thuận mặc
nhiên là nước này gặp nguy biến có thể nhờ một nước khác mang quân sang giúp. Tất
nhiên khi đã nhờ nước khác sang giúp mình thì không thể coi họ là đạo quân xâm
lược. Điều này đã được nhiều lần chứng minh trong lịch sử: năm 1785, trong thời
gian nương náu tại Vọng Các (Bangkok), các tướng Việt đã có dịp giúp quân Xiêm
đánh tan cuộc xâm lăng của quân Miến Điện (Diến Điện, nay là Myanmar); thế kỷ
XIX và các thế kỷ trước, mỗi lần nước láng giềng Chân Lạp bị lân bang Xiêm La
xâm lấn, họ yêu cầu quân ta kéo sang Nam Vang để giúp đẩy lùi cuộc ngoại xâm,
không có lịch sử nước nào gọi quân ta là quân xâm lược. Ngay giữa cuộc nội chiến
giữa chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn, nhiều lần nước Ai Lao (Lào) tình nguyện đưa
quân sang tấn công vào mặt tây bắc của Đại Việt để phân tán lực lượng của quân
Tây Sơn (còn kiểm soát miền trung và miền bắc Đại Việt), giúp chúa Nguyễn Ánh rảnh
tay giải quyết các chiến trường phía Nam.
2. Nhà Tây Sơn có “cõng rắn” hay không?
Chúng ta cứ giả thiết như sự hiện diện
của hai vạn quân Xiêm trong đạo quân của chúa Nguyễn năm 1784 là một hình thức
“cõng rắn” của chúa Nguyễn Ánh, vậy hãy xét xem nhà Tây Sơn có “cõng rắn” theo
cách thức này không?
Thủy chiến trên đầm Thị Nại |
Trước hết cần nhắc lại một số sự kiện
quan trọng trong sử Việt liên quan đến mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và các nhóm
quân sự người Hoa. Chỉ hai năm sau khi nổi dậy, năm 1773, Nguyễn Nhạc tự xưng
là Trại chủ, thu nạp quân của hai lái buôn người Hoa là Tập Đình và Lý Tài vào
quân đội của mình. Quân của Tập Đình gọi là Trung Nghĩa quân, quân của Lý Tài gọi
là Hòa Nghĩa quân. Nhờ hai đạo quân này mà quân Tây Sơn đánh thắng nhiều trận lớn,
đẩy quân chúa Nguyễn vào thế chống đỡ, cuối cùng chúa Định vương Nguyễn Phúc
Thuần phải cùng gia quyến và quần thần bỏ dinh đô Phú Xuân (Huế) chạy vào Gia Định.
Tuy nhiên, đến năm 1775, mối quan hệ
giữa nhà Tây Sơn và hai nhân vật người Hoa trên bắt đầu rạn nứt, Nguyễn Nhạc lập
mưu giết Tập Đình, Đình biết trước, bỏ chạy về Quảng Đông, bị quan nhà Thanh bắt
giết. Ít lâu sau, không chịu đựng nổi cách hành xử khắc nghiệt của Nguyễn Nhạc,
Lý Tài dẫn Hòa Nghĩa quân đến đầu hàng tướng Tống Phước Hiệp của chúa Nguyễn.
Năm 1782, Hòa Nghĩa quân chém được tướng Phạm Ngạn của nhà Tây Sơn tại cầu Tham
Lương, Nguyễn Nhạc giận cá chém thớt, bắt giết hàng mấy ngàn người Hoa ở Gia Định,
bất kể thuộc thành phần nào, thây nằm chật sông, dân chúng không dám ăn cá mấy
tháng liền.
Xem
thêm: Điều gì khiến nhà Tây Sơn bại bởi nhà Nguyễn?
Trong những năm gần đây, các hoạt động
của phong trào Tây Sơn được nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu phương Tây khảo rất kỹ,
trong số này phải kể đến bà Dian H. Murray, tác giả quyển Pirates of the South
China Coast, 1790-1810 (Hải tặc ở miền duyên hải Nam Trung Hoa, những năm
1790-1810), xuất bản năm 1987, và giáo sư người Mỹ George Dutton, tác giả quyển
The Uprising of Tây Sơn (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn) – 2006 . Hai tác giả
trên đã dành những chương quan trọng nêu chi tiết cụ thể sự hợp tác mật thiết
giữa nhiều nhóm hải tặc người Hoa ở biển Đông với nhà Tây Sơn, từ khi hoàng đế
Quang Trung còn nắm quyền cho đến ngày cuối cùng của chính thể này. Bọn cầm đầu
các nhóm hải tặc Trung Hoa được nhà Tây Sơn giao cho nhiệm vụ tuyển người bổ
sung vào lực lượng của họ, đưa quân làm chốt chặn các ngả tiến quân của quân
nhà Nguyễn và bước đầu đã đóng góp nhiều công sức quan trọng trong các chiến dịch
đánh chiếm Phú Xuân và Thăng Long năm 1786. Một trong những nhân vật cốt lõi
thuộc nhóm hải tặc Trung Hoa là Trần Thiên Bảo được nhà Tây Sơn phong chức Tổng
binh, tước hầu; một người bạn của y là Lương Khuê Hiệp được phong tước Hiệp Đức
hầu. Trong tác phẩm kể tên, giáo sư Dutton đã viết về sự liên kết giữa hải tặc
Trung Hoa và nhà Tây Sơn như sau:
“Những người từng là cướp biển đơn thuần,
không có phẩm cấp hay địa vị nay được công nhận là tướng lĩnh, quan trấn thủ, hầu
tước, trong lúc có người thậm chí còn được phong vương. Một tay cầm đầu hải tặc
tên Mạc Quan Phù được phong tước Đông Hải Vương, trong khi một người khác là Ô
Thạch Nhị được phong Bình Ba Vương năm 1797. Giữa thập niên 1770, các nhà lãnh
đạo Tây Sơn đã triển khai sức mạnh và địa vị từ những chức vụ và cương vị chính
thức do chúa Trịnh ban cho, thì các hải tặc Trung Hoa cũng có được tầm cỡ từ những
chức vụ mà nhà Tây Sơn ban cho chúng. Sự hợp pháp hóa này quan trọng trong mối
quan hệ giữa bọn hải tặc với nhau và với chính quyền Trung Hoa, nhưng nó cũng
có ích cho những nhà lãnh đạo Tây Sơn, vì nó đưa ra một sự giải thích về cách
hành xử trong mối quan hệ giữa họ với những kẻ ngoài vòng pháp luật này.
Đội thủy quân của hải tặc phục vụ
trong quân đội Tây Sơn khá quan trọng, một mặt với Mạc Quan Phù chỉ huy hơn một
ngàn người, mặt khác với một người cầm đầu hải tặc là Trịnh Thất, chỉ huy một lực
lượng hơn 200 tàu thuyền. Thủy quân với tầm cỡ đó rất hữu dụng cho nhà Tây Sơn,
đảm đương nhiều chức năng cốt yếu cho triều đại Quang Trung. Trước hết, hải tặc
giúp ông mở rộng sức mạnh thủy quân, bổ sung khả năng tuần tra vùng duyên hải từ
biên giới với Trung Quốc đến vùng cực nam Qui Nhơn…” (sách đã dẫn, trang 222).
Sau khi vua Quang Trung qua đời, hải tặc
Trung Hoa tiếp tục tham gia vào những chiến dịch quân sự quan trọng của nhà Tây
Sơn, phục vụ cho chính quyền này cho đến những ngày cuối cùng (1802). Xét như
thế để thấy rằng sự hiện diện của những lực lượng hải tặc Trung Hoa do nhà Tây
Sơn kết nạp vào quân đội của họ về bản chất không khác gì lực lượng quân Xiêm
được tăng cường cho quân đội của Nguyễn Ánh. Chúng ta sẽ có dịp trở lại một
cách chi tiết hơn về sự “cộng sinh” giữa nhà Tây Sơn và các nhóm hải tặc Trung
Hoa trong suốt mười mấy năm liền.
Hội An, nơi từng là thương cảng nổi tiếng,
đã bị chính quân Tây Sơn phá hủy. Tương tự, đã xảy ra các cuộc tàn phá và thảm
sát ở vùng cù lao Phố, Mỹ Tho, Chợ Lớn. Xét ra, thiệt hại còn lớn hơn nhiều so
với những gì quân Xiêm gây ra.
Tất nhiên, chúng ta không hẹp hòi kết
luận rằng sự hiện diện của một lực lượng hùng hậu hải tặc Trung Hoa trong quân
đội nhà Tây Sơn là một hình thức “cõng rắn” của ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ. Việc
làm có ý thức của họ cũng như việc chúa Nguyễn Ánh chấp nhận cho 2 vạn quân
Xiêm chiến đấu chung hàng ngũ với quân đội của mình chỉ nhằm tăng cường tiềm lực
quân sự trong cuộc nội chiến giữa hai bên. Vì vậy, trên tinh thần công bằng của
lịch sử, nay đã đến lúc cần xem lại cái luận điệu một chiều cũ rích chúa “Nguyễn
Ánh cõng rắn cắn gà nhà” của hàng ngàn cái loa vẫn ra rả từ nhiều năm qua.