Trong
phần trước, chúng ta đã tìm hiểu về sự kiện: Liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ
súng xâm lược nước ta vào ngày 1-9-1858 tại Đà Nẵng. Nhưng chúng đã vấp phải sự
kháng cự của quân nhà Nguyễn.
Sang
năm 1859, Liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã rút hai phần ba quân số và 8 chiếc
tàu chiến ra khỏi Đà Nẵng. Vậy chúng đi đâu? và sẽ làm gì tiếp theo?
Trong
phần này, chúng ta sẽ được biết tới sự kiện mới: Thực dân Pháp đánh chiếm thành
Gia định – năm 1859.
Thất
bại trong chiến lược: “Đánh nhanh thắng nhanh” của: Liên quân Pháp – Tây Ban
Nha tại Đà Nẵng. Không những thế, chúng còn bị cầm chân ở bán đảo Sơn Trà. Tướng
Genouilly buộc phải thay đổi kế hoạch chuyển quân vào nam để tiến hành đánh chiếm
thành Gia Định.
Lý do Thực dân Pháp tiến
hành đánh thành Gia Định:
Trong
thư ngày 29 tháng 1 năm 1859 của Genouilly gửi Bộ trưởng Hải quân Pháp ở Paris
có đoạn: "Sài Gòn nằm trên một con sông mà chiến thuyền của chúng ta dễ
vào, và hễ quân lên bộ thì đánh thành ngay, không phải lưng cõng, vai mang,
băng đồng mệt nhọc. Sài Gòn lại là một vựa thóc. Dân chúng và binh lính ở kinh
thành Huế sống một phần nhờ gạo Sài Gòn. Đến tháng Ba thì thuyền chở thóc gạo,
sẽ kéo buồm từ Sài Gòn ra Huế. Chúng tôi quyết chặn thóc gạo đó lại..."
Như
vậy, việc Pháp chọn mặt trận thứ hai ở Gia Định, cũng không nằm ngoài mục đích
muốn chiếm đóng và tìm kiếm lợi lộc từ Đại Nam. Nếu không thể "đánh nhanh,
thắng nhanh" ở Đà Nẵng được. thì Gia Định quả là một địa bàn thuận lợi hơn
Hà Nội. bởi ở đây có một hệ thống sông rạch chằng chịt, nhiều sản vật, nhiều của
cải và nhiều lúa gạo nhất Đại Nam. Cho nên, Genouilly mong muốn chiếm lĩnh Gia
Định để có thể "vừa xây dựng căn cứ, vừa phòng thủ", "vừa hành
binh, vừa lưu thông thương mại dễ dàng". Ngoài việc cắt đứt con đường tiếp
tế lương thực cho Huế như đã nêu, thực dân Pháp sẽ có thêm điều kiện thuận lợi
để thực hiện ý đồ làm chủ lưu vực sông Mê Kông, và xa hơn nữa là ngược sông Mê
Kông lên phía Bắc và sang Vân Nam – Trung Quốc.
Diễn biến:
Từ
nhận định trên, ngày 2 tháng 2 năm 1859, tướng De Genouilly đem số tàu và số
quân đã kể trên, tiến vào Nam.
Ngày
10 tháng 2, đại bác Pháp bắn vào Vũng Tàu. Ngày 11 tháng 2, đoàn tàu chiến Pháp
vào sông Cần Giờ. Sau đó, quân Pháp vừa đi vừa tháo gỡ những chướng ngại vật
trên sông và triệt phá 12 đồn trại của quân Việt ở hai bên bờ, nên mãi tới chiều
15 tháng 2, quân Pháp mới đến được ụ Hữu Bình. Tức thì, cuộc đấu pháo đã diễn
ra dữ dội suốt đêm. Quân Việt dùng thuyền nhỏ chở đầy thuốc súng và rơm khô, định
dùng kế hoả công nhưng bị quân Pháp biết, sai người lén đốt trước.
Sáng
sớm hôm sau, tức ngày 16 tháng 2, bảy tàu chiến Pháp dàn trận rồi ra sức bắn
phá cho đến khi quân Việt phải bỏ chạy và quân Pháp xông lên chiếm được pháo
đài. Và ngày hôm sau nữa (17 tháng 2), các tàu chiến Pháp đã có mặt trước thành
Gia Định.
Nhờ
cho hai tàu nhỏ vào rạch Thị Nghè thám thính, cộng thêm sự chỉ dẫn của giáo sĩ
Lefèbvre, nên các sĩ quan Pháp đã hiểu khá rõ lực lượng và cách bố phòng của
thành Gia Định.
Sáng
sớm ngày 17 tháng 2, tướng De Genouilly cho đại bác trên tất cả các tàu chiến bắn
yểm hộ rồi cho một cánh quân đổ bộ. Đội quân ấy đi theo con đường mà sau này
(1865), Pháp đặt tên là đường Citadelle rồi dùng chất nổ phá thành. Pháo trên
thành bắn xuống tàu giặc nhưng không mấy hiệu quả. Khi đánh thủng được cửa
Đông, quân Pháp dùng thang cao leo vào thành, thì đôi bên liền xông vào đánh
giáp lá cà. Đến khoảng 10 giờ trưa, Hộ đốc Võ Duy Ninh, đang giữ trọng trách trấn
thủ thành, ra lệnh lui quân, bỏ lại hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn trăm chiến
thuyền gỗ trên sông Thị Nghè.
Chạy
đến thôn Phước Lý (thuộc tổng Phước Lộc, huyện Tân Bình xưa) Hộ đốc Võ Duy Ninh
và Án sát Lê Từ tự vẫn, còn Đề đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Thực, Lãnh binh Tôn Thất
Năng, nhờ sự yểm trợ của đạo quân ứng nghĩa do Lê Huy và Trần Thiệu Chính chỉ
huy, nên mang quân chạy về được ụ Tây Thới.
Theo
A. Thomazi: Trong thành Gia Định lúc này có hơn 2.000 quân với 200 đại bác bằng
sắt, bằng đồng, một hải phòng hạm, bảy chiến thuyền, 25.000 kg thuốc súng, tiền
bạc trị giá tương đương 130.000 francs, thực phẩm đủ nuôi 8.000 quân trong một
năm.
Tuy
thắng trận, nhưng thực dân Pháp không đủ quân để giữ thành, không nhận được sự
hỗ trợ từ các giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo và luôn bị các đội nghĩa quân
ngày đêm bám sát, tìm cách bao vây, nên quân Pháp đã phải quyết định phá hủy
thành Gia Định.
Vào
ngày 8 tháng 3 năm 1859, tướng De Genouilly cho đặt mấy chục ổ thuốc nổ phá
tung nhiều đoạn trường thành, đốt dinh thự kho tàng bên trong, đốt cả thóc lúa.
Kể
lại vụ việc này, sách Địa chí TP. Hồ Chí Minh, tập I, có đoạn: “Kho thóc thành Gia Định cháy mãi hai năm mà
khói còn nghi ngút. Hai mươi bốn tháng nắng mưa không làm tắt được đám cháy
nào. Quân Pháp cũng cướp giật, đốt luôn nhiều phố xá thương mãi và thôn xóm dân
cư”.
Nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu đã ghi:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu
mây...
Phá
tan thành Gia Định xong, De Genouilly chỉ để lại một số quân đóng giữ ở đồn Hữu
Bình), còn bao nhiêu rút hết xuống các tàu chiến.
Ngày
20 tháng 4 năm 1859, viên tướng trên giao quyền cho Đại tá hải quân
Jauréguibery chiếm giữ Gia Định, rồi lui tàu trở lại mặt trận Đà Nẵng, vì lúc
này quân Pháp ở đó đang bị nguy khốn vì thương vong và dịch bệnh.
Phản ứng của Nhà Nguyễn:
Nghe
tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế vẫn chủ trương để đại quân phòng ngự Đà Nẵng,
chỉ phái thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp mang 15.000 quân vào đóng ở Biên
Hòa".
Tổng
đốc Long Tường Trương Văn Uyển một mặt gửi sớ về triều đình báo tin thất thủ
Gia Định, mặt khác ông cũng triệu tập các trấn thủ khác ở An Giang, Định Tường,
Hà Tiên hợp sức chống cự. Tổng đốc Trương Văn Uyển kéo quân tới đồn Lão Sầm, gần
chùa Mai Sơn để tấn công nhưng quân Pháp đổ ra bao vây, quân nhà Nguyễn phải
lui về cố thủ Vĩnh Long và trong trận này, chủ tướng của quân Nguyễn bị trọng
thương.
Theo
như nhận định của Nguyễn Phan Quang, "một cuộc giải phóng đất nước đã mở
ra" nhưng tướng nhà Nguyễn chỉ huy mặt trận Gia Định là Tôn Thất Hiệp lại
chủ trương "án binh bất động" để "làm nản lòng địch". Do vậy,
thời cơ đánh bật quân xâm lược ra khỏi bờ cõi bị bỏ qua.
Quân
Pháp tuy đã hạ được thành Gia Định, nhưng phải đối phó với những đạo quân
"ứng nghĩa" hoạt động sôi nổi ở khắp nơi, đêm ngày phục kích, đột
kích, bao vây đối phương. Nhân dân cũng đã tự thiêu hủy nhà cửa, di tản hết,
không hợp tác với Pháp. Tuy nhiên cũng có những người dân địa phương đã làm tay
sai cho Pháp.
Trước
sự kháng cự của quân và dân Nhà Nguyễn, đêm 21 tháng 4 năm 1859, quân Pháp ở đồn
Hữu Bình bị thiệt hại khá nặng. Trong một báo cáo gửi về Bộ hải quân Pháp ở
Paris, tướng De Genouilly đã than rằng:
"Bây giờ tôi không biết bằng cách gì và đến
chừng nào cái sự việc Nam Kỳ này sẽ được giải quyết.[11]Không thể không thừa nhận
rằng cuộc chiến tranh với nước này còn khó hơn cuộc chiến tranh với vương quốc
Trung Hoa".
Lời của tác giả.
Nhớ rằng:
Đất nước của chúng ta trải qua hơn 1000 năm bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, mối nhục này chúng ta đâu thể quên.
Tự hào rằng:
Đất nước của chúng ta với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm oai hùng của các bậc tiền nhân đi trước. Lẫy lừng nhất trong lịch sử là 3 lần đánh thắng quân Mông – Nguyên khiến cho cả Thế giới khiếp sợ.
Ý thức rằng:
Lịch sử của Dân tộc là những nỗi đau bất hạnh kéo dài triền miên. Sự thờ ơ với lịch sử của mỗi người Việt Nam chính là con dao giết chết Dân tộc, với làn sóng xâm lăng của ngoại bang là không bao giờ kết thúc.
Vậy nên:
Là người Việt Nam, không nhất thiết phải giỏi lịch sử. Nhưng phải biết và phải hiểu lịch sử Nước nhà. Không làm rạng danh được tổ tiên thì phải để cho con cháu được tự hào.