Năm
1834, Hoàng đế Minh Mạng chia cả nước thành 3 kỳ để thuận tiện cho việc quản lý
Đất nước.
Trong
giai đoạn từ 1834-1884, vùng đất Trung Kỳ là một vùng quản hạt của nước Đại Nam
độc lập. Theo đó, Hoàng đế Minh Mạng đã lấy Phủ Thừa Thiên làm trung tâm, do
triều đình trực tiếp quản lý. Chia các tỉnh phía bắc phủ thừa thiên thành Hữu Kỳ
và các tỉnh phía nam phủ thừa thiên thành Tả Kỳ.
Hữu
Kỳ gồm 5 tỉnh là: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị.
Tả
Kỳ gồm 6 tỉnh là: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình
Thuận.
Hoàng
Đế Minh Mạng đặt ra chức tổng đốc quản hạt từ 2 đến 3 tỉnh.
Tổng
thảy toàn bộ Trung Kỳ được đặt dưới quyền quản hạt của 6 vị tổng đốc là:
Tổng
đốc Thanh Hóa,
Tổng
đốc An-Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh),
Tổng
đốc Bình-Trị (Quảng Bình và Quảng Trị),
Tổng
đốc Nam-Ngãi (Quảng Nam và Quảng Ngãi),
Tổng
đốc Bình-Phú (Bình Định và Phú Yên),
Tổng
đốc Thuận-Khánh (Bình Thuận và Khánh Hòa)),
Và
1 vị phủ doãn phủ Thừa Thiên.
Đứng
đầu mỗi tỉnh Trung Kỳ, cũng giống toàn bộ 30 tỉnh trong cả nước (trừ phủ Thừa
Thiên), đều là một viên quan tuần phủ.
Cương
vực Trung Kỳ thời nhà Nguyễn bao gồm cả những phần đất nay thuộc về lãnh thổ
Lào (là những vùng đất thuộc địa giới các tỉnh bắc Trung Kỳ từ Thanh Hóa đến Quảng
Trị) tức là Hữu Kỳ và 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng
Trung Kỳ không bao gồm Tây Nguyên.
Đà
Nẵng và Ninh Thuận ngày nay, vào thời nhà Nguyễn đã nằm trong Trung Kỳ nhưng
thuộc địa giới của 2 tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận (Đà Nẵng thuộc Quảng Nam,
Ninh Thuận thuộc Bình Thuận).
Trừ
3 tỉnh bắc Trung Kỳ là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh (là đất của người Việt cổ),
thì phần lớn còn lại của Trung Kỳ (từ đèo Ngang đến hết Bình Thuận) từng là đất
đai của vương quốc Chăm Pa.
Theo
hiệp ước Harmand 1883 thì Trung Kỳ (tiếng Pháp gọi là Annam) kéo dài từ địa giới
phía bắc tỉnh Bình Thuận đến Đèo Ngang (tức là tách 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh ở phía bắc và tỉnh Bình Thuận ở phía nam ra khỏi Trung Kỳ (An Nam).
Pháp
đặt một viên Công sứ (Résident) tại Huế thay mặt cho chính quyền bảo hộ của
Pháp tại Trung Kỳ.
Hiệp
ước Patenôtre 1884 quy định lại ranh giới Trung Kỳ: từ địa giới phía nam tỉnh
Bình Thuận trở ra đến địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình như cũ.
Thực
dân Pháp đặt chức "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ", gọi tắt là Tổng sứ,thay
mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam
và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền
Trung – Bắc Kỳ".
Chức
Tổng sứ bị bãi bỏ năm 1889, Khâm sứ Trung Kỳ đảm nhiệm các công việc cho chính
phủ Pháp bên cạnh Triều đình.
Như
vậy Trung Kỳ (chữ Hán: 中圻) là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra cho phần giữa của
Việt Nam năm 1834. Người Pháp sau khi chiếm toàn bộ Việt Nam năm 1884, đã đặt
Trung Kỳ thành một xứ bảo hộ nằm trong Đông Dương thuộc Pháp, và gọi là Vương
quốc An Nam. Trung Kỳ là một trong ba kỳ tạo nên nước Việt Nam. Sau khi Việt
Nam giành được độc lập (1945), tên gọi này được thay bằng tên gọi Trung Bộ. Việt
Nam Cộng hòa thì thay bằng tên gọi Trung phần (để chỉ phần đất Trung Kỳ thuộc
Việt Nam Cộng hòa).
Lời của tác giả.
Nhớ rằng:
Đất nước của chúng ta trải qua hơn 1000 năm bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, mối nhục này chúng ta đâu thể quên.
Tự hào rằng:
Đất nước của chúng ta với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm oai hùng của các bậc tiền nhân đi trước. Lẫy lừng nhất trong lịch sử là 3 lần đánh thắng quân Mông – Nguyên khiến cho cả Thế giới khiếp sợ.
Ý thức rằng:
Lịch sử của Dân tộc là những nỗi đau bất hạnh kéo dài triền miên. Sự thờ ơ với lịch sử của mỗi người Việt Nam chính là con dao giết chết Dân tộc, với làn sóng xâm lăng của ngoại bang là không bao giờ kết thúc.
Vậy nên:
Là người Việt Nam, không nhất thiết phải giỏi lịch sử. Nhưng phải biết và phải hiểu lịch sử Nước nhà. Không làm rạng danh được tổ tiên thì phải để cho con cháu được tự hào.